Theo ông Nguyễn Văn Bá, nhà sáng lập, kiêm Giám đốc Đào tạo Thương hiệu Lẩu nấm Gia Khánh, trong quá trình khởi nghiệp, các doanh nghiệp khởi nghiệp thường gặp 4 vấn đề quan trọng là nguồn tiền (tài chính); marketing, truyền thông; tìm kiếm khách hàng và vấn đề về nhân sự. Trong đó, huy động nguồn tiền từ đâu luôn là vấn đề gây đau đầu nhất đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Huy động vốn từ lợi nhuận không chia
Huy động vốn từ lợi nhuận không chia là một trong các hình thức huy động vốn phổ biến nhất. Nguồn vốn từ khoản tích lũy lợi nhuận không chia thường sẽ được sử dụng để tái đầu tư, cụ thể:
Thông thường, lượng vốn từ hình thức huy động vốn ban đầu và vốn lợi nhuận không chia không đủ cho việc tái đầu tư nên công ty thường sử dụng thêm các hình thức huy động vốn như đi vay, phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Huy động vốn bằng tín dụng ngân hàng
Hình thức huy động vốn từ tín dụng ngân hàng được xem là giải pháp tối ưu giúp đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể huy động vốn dưới hình thức cho vay thế chấp tài sản hoặc vay tín chấp. Khi đó, doanh nghiệp sẽ cần hoàn trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng khi đến kỳ hạn thanh toán theo các điều khoản quy định. Tín dụng ngân hàng được thể hiện dưới các hình thức bao gồm cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay đầu tư dài hạn, thỏa thuận tín dụng tuần hoàn hợp đồng tín dụng từng lần,...
Hầu hết các ngân hàng hay doanh nghiệp cho vay vốn hiện nay đều có những gói vay với ưu đãi và lãi suất hấp dẫn để hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh. Tuy nhiên, doanh nghiệp khi xác định vay cần có kế hoạch trả nợ rõ ràng để tránh trường hợp không thanh toán được các khoản nợ.
Gọi vốn bằng tín dụng thương mại
Phương thức huy động vốn từ các tổ chức tín dụng thương mại được định nghĩa là mối quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp kinh doanh với nhau dưới hình thức là mua bán nợ hàng hóa. Hình thức tín dụng thương mại có 3 loại phổ biến như sau:
Sự tồn tại của phương thức huy động vốn này cho phép doanh nghiệp chủ động tìm kiếm và khai thác các nguồn vốn nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn từ hoạt động tín dụng thương mại không chỉ có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp mà còn đóng vai trò quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế.
Vay tiền từ cá nhân và tổ chức
Trong các hình thức huy động vốn của doanh nghiệp, việc vay tiền từ các mối quan hệ cá nhân, tổ chức thường được doanh nghiệp lựa chọn bởi tính nhanh gọn và không giới hạn lượng vốn vay. Mối quan hệ vay vốn này thường được thực hiện trên cơ sở luật dân sự, mối quan hệ quen biết, tin tưởng, thân tình giữa các cá nhân và tổ chức. Điều kiện rất đơn giản, chỉ cần có hợp đồng vay tài sản là doanh nghiệp có thể vay vốn từ cá nhân hoặc tổ chức khác.
Hình thức huy động vốn này thường thấy nhiều ở công ty mẹ và công ty con ở các tập đoàn. Đây được xem là hoạt động vay theo quy định về tài sản dân sự, không nhằm mục đích kinh doanh và các doanh nghiệp thường không thực hiện thường xuyên. Hoạt động vay vốn này cần được phân biệt rõ ràng với hình thức cấp tín dụng, hoạt động cho vay chuyên nghiệp từ các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.
Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu
Bên cạnh trái phiếu, công ty cũng có thể huy động vốn từ việc phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu được xem là một hình thức chứng khoán dựa theo nội dung của Khoản 2 Điều 4 tại Luật chứng khoán năm 2019. Theo đó, người sở hữu cổ phiếu sẽ có lợi ích hợp pháp tương ứng với phần giá trị của cổ phần mà họ đã mua.
Để có thể phát hành được cổ phiếu để huy động vốn, doanh nghiệp cần đáp ứng các điều kiện dưới đây:
Trên thực tế, việc gọi vốn từ quỹ đầu tư là một phương án đáng cân nhắc. Hoạt động góp vốn được dựa trên các điều kiện và điều khoản của quỹ mà doanh nghiệp được chấp nhận.
Huy động vốn bằng phát hành trái phiếu
Một trong các hình thức huy động vốn cũng mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp đó là phát hành trái phiếu. Trái phiếu được định nghĩa là chứng khoán được doanh nghiệp phát hành cho nhà đầu tư có kỳ hạn từ 1 năm trở lên. Doanh nghiệp phải cam kết thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ (nếu có) và trả đủ cả gốc lẫn lãi cho nhà đầu tư.
Các loại hình doanh nghiệp được phát hành trái phiếu bao gồm công ty cổ phần và công ty TNHH được thành lập và vận hành theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Những rủi ro có thể gặp từ các hình thức huy động vốn
Hầu hết các doanh nghiệp đều phải sử dụng các hình thức huy động vốn từ bên ngoài, nhưng những phương thức này vẫn tiềm ẩn một số rủi ro sau:
Như vậy, có nhiều các hình thức huy động vốn của doanh nghiệp khác nhau để chủ động hơn trong việc chuẩn bị nguồn tiền cho các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, để có thể giảm thiểu các rủi ro có thể gặp trong quá trình huy động, doanh nghiệp nên nhờ sự hỗ trợ của các chuyên gia tư vấn tài chính và pháp lý. Đừng quên theo dõi các bài viết khác trên website của 1C Việt Nam để cập nhật những thông tin hữu ích về quản trị doanh nghiệp nhé!
Từ khóa: doanh nghiệp khởi nghiệp, huy động vốn, chính sách
Capital plays an important role and is one of the factors that determine the success or failure of a start-up business. In fact, the most common barrier in starting a business is difficulty in raising capital. Although Vietnamese law has policies to support start-up businesses in accessing capital, accessing capital still faces many difficulties and obstacles. Based on the analysis of the capital mobilization situation of start-up businesses, the article proposes some solutions to help start-up enterprises mobilize capital effectively.
Keywords: start-up businesses, capital mobilization, policies
Việt Nam là quốc gia năng động thứ 3 Đông Nam Á về khởi nghiệp sáng tạo. Các DNKN đang có tốc độ phát triển ấn tượng, với 3.800 doanh nghiệp trên toàn quốc, trong đó đã có những doanh nghiệp được định giá tỷ USD và có nhiều đóng góp đáng ghi nhận cho bức tranh kinh tế Việt Nam (Trường Nhật, 2023). Một số ngành đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của các DNKN có thể kể đến như: công nghệ giáo dục, công nghệ tài chính… hay trong các lĩnh vực truyền thống như: du lịch, bất động sản… Sự phát triển nhanh chóng của DNKN đã đặt ra những yêu cầu cao hơn cho các bên, nhất là vấn đề đầu tư và huy động vốn cho DNKN.
DNKN là một doanh nghiệp được thành lập mới hoặc đang ở giai đoạn phát triển ban đầu, đang tìm kiếm một mô hình kinh doanh mới với mục đích nhanh chóng hình thành nên một tổ chức hoặc doanh nghiệp quy mô, có khả năng nhân rộng tại các thị trường khác nhau, sử dụng yếu tố công nghệ để tạo lợi thế cạnh tranh. Theo đó, hầu hết DNKN là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Tuy nhiên, khác với DNNVV thông thường, DNKN có một số đặc trưng cơ bản, đó là:
- Tính đột phá và sáng tạo: Đối với mỗi DNKN, đột phá và sáng tạo được xem là yêu cầu bắt buộc và là mục tiêu phát triển quan trọng nhất. Các DNKN thường tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới chưa từng có trên thị trường, hoặc đưa ra phương pháp mới, cách thức mới để làm ra các sản phẩm, dịch vụ có sẵn trên thị trường.
- Khả năng tăng trưởng nhanh: DNKN được thiết kế để tăng trưởng không giới hạn. Vì vậy, nếu có thể tồn tại, các DNKN thường có khả năng tăng trưởng nhanh với tốc độ tăng trưởng trung bình trên 20% trong vòng 3 năm liên tục. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa DNKN với DNNVV.
- Tính rủi ro: Mức độ rủi ro của DNKN xuất phát từ các nguyên nhân như: ý tưởng kinh doanh mới, yếu thế cạnh tranh trên thị trường, thiếu vốn, trình độ quản trị, nguồn nhân lực...
- Yếu tố công nghệ: Công nghệ là đặc trưng tiêu biểu của một DNKN. Do các sản phẩm của các doanh nghiệp này có tính đột phá, sáng tạo, nên hầu hết DNKN sử dụng yếu tố công nghệ để tạo lợi thế cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ.
- Chu kỳ sống: Khác với DNNVV thông thường, chu kỳ sống của DNKN bắt đầu ngay từ giai đoạn phát triển ý tưởng. Chỉ sau khi thử nghiệm thành công sản phẩm xuất phát từ ý tưởng đó, DNKN mới thực sự đạt tới khâu khởi sự kinh doanh, đăng ký thành lập doanh nghiệp.
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC DNKN
Chính sách hỗ trợ DNKN huy động vốn
Ở nước ta, chủ trương, quan điểm về hỗ trợ phát triển DNKN đã được nêu trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và tiếp tục được khẳng định rõ hơn trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII: "Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới". Ngày 18/5/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 844/QĐ-TTg phê duyệt Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025. Đây là văn bản đầu tiên trực tiếp quy định cơ chế, chính sách về hỗ trợ DNKN sáng tạo. Năm 2017, Quốc hội đã thông qua Luật Hỗ trợ DNNVV, tạo bước ngoặt về khung khổ pháp lý cao nhất quy định về nguyên tắc, nội dung, nguồn lực hỗ trợ DNNVV, trong đó có những quy định riêng về hỗ trợ DNKN huy động vốn. Nguồn vốn huy động cho các DNKN gồm: vốn tín dụng có hỗ trợ, bảo lãnh của Nhà nước; vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước; vốn hợp pháp từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; vốn hỗ trợ từ miễn giảm các nghĩa vụ phải nộp ngân sách.
Cụ thể hóa Luật Hỗ trợ DNNVV, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản như: Nghị định số 34/2018/NĐ-CP, ngày 8/3/2018 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV; Nghị định số 38/2018/NĐ-CP, ngày 11/3/2018 quy định chi tiết về đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp sáng tạo; Nghị định số 39/2018/NĐ-CP, ngày 11/3/2018 quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ DNNVV; Nghị định số 39/2019/NĐ-CP, ngày 10/5/2019 về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển DNNVV; Nghị định số 80/2021/NĐ-CP, ngày 26/8/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ DNNVV… Ngoài ra, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn đều có các quy định về hỗ trợ huy động vốn cho DNKN sáng tạo.
Nhìn chung, hình thức hỗ trợ DNKN huy động vốn được quy định như sau:
- Quy định về bảo lãnh tín dụng: Hiện nay, chưa có quy định riêng về bảo lãnh tín dụng đối với DNKN. Các DNKN được bảo lãnh tín dụng như đối với DNNVV thuộc các lĩnh vực ưu tiên. Bảo lãnh tín dụng được thực hiện dựa trên tài sản bảo đảm hoặc phương án sản xuất, kinh doanh khả thi hoặc xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp. Nghị định số 34/2018/NĐ-CP quy định, DNNVV được bảo lãnh tín dụng khi đáp ứng các điều kiện cơ bản: có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, có khả năng hoàn trả vốn vay; có phương án về vốn chủ sở hữu tối thiểu 20% tham gia dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh tại thời điểm được xem xét cấp bảo lãnh; không có các khoản nợ thuế từ một năm trở lên và nợ xấu tại các tổ chức tín dụng; có biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh vay vốn. Tổng mức bảo lãnh tín dụng trên vốn điều lệ thực có của quỹ không vượt quá 15% đối với một doanh nghiệp và không vượt quá 20% đối với một doanh nghiệp và người có liên quan.
- Quy định về hỗ trợ lãi suất: Điều 17 Luật Hỗ trợ DNNVV và Nghị định số 80/2021/NĐ-CP quy định, DNKN sáng tạo được hỗ trợ lãi suất vay vốn trung hạn và dài hạn tại các tổ chức tín dụng để thực hiện phương án, dự án sản xuất, kinh doanh. Trong từng thời kỳ, Chính phủ quyết định chính sách cấp bù lãi suất. Việc cấp bù lãi suất được thực hiện thông qua các tổ chức tín dụng, theo phương thức hỗ trợ sau đầu tư. Mỗi doanh nghiệp được hỗ trợ lãi suất đối với một phương án, dự án sản xuất, kinh doanh trong cùng một giai đoạn. Mức hỗ trợ là 2%/năm.
- Quy định về vay vốn: Nghị định số 39/2019/NĐ-CP quy định, DNKN sáng tạo là một trong hai đối tượng được vay vốn từ Quỹ phát triển DNNVV nếu đáp ứng các điều kiện cơ bản sau: có dự án, phương án sản xuất, kinh doanh khả thi khai thác các loại tài sản trí tuệ hoặc công nghệ mới hoặc mô hình kinh doanh mới; bảo đảm nguồn vốn chủ sở hữu tham gia dự án, phương án sản xuất, kinh doanh tối thiểu 20% tổng vốn đầu tư để thực hiện dự án, phương án và phải bảo đảm đủ nguồn vốn để thực hiện dự án, phương án sản xuất, kinh doanh; đáp ứng các quy định về bảo đảm tiền vay. Hoạt động vay vốn từ Quỹ phát triển DNNVV được thực hiện thông qua hình thức vay trực tiếp từ quỹ hoặc gián tiếp thông qua ngân hàng thương mại được lựa chọn. Mức lãi suất cho vay bằng 80% mức thấp nhất lãi suất cho vay thương mại. Mức vay đối với mỗi dự án, phương án sản xuất, kinh doanh tối đa không được quá 80% tổng mức đầu tư. Tổng mức cho vay đối với một doanh nghiệp không được vượt quá 15% vốn điều lệ thực có của Quỹ. Thời hạn cho vay tối đa không quá 7 năm.
- Quy định về đầu tư từ ngân sách nhà nước: Nghị định số 38/2018/NĐ-CP quy định, ngân sách nhà nước của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đầu tư cho DNKN sáng tạo được thực hiện bởi tổ chức tài chính nhà nước ở địa phương có chức năng đầu tư tài chính và thông qua việc lựa chọn quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo cùng thực hiện. Trên cơ sở đề xuất của quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, tổ chức tài chính xem xét, quyết định đầu tư. Mức đầu tư không quá 30% tổng số vốn mà doanh nghiệp huy động được từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo. Thời hạn đầu tư tối đa là 5 năm, trong thời hạn này, tiến hành chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp cho nhà đầu tư tư nhân.
- Quy định về tổ chức, hoạt động của quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo: Đây là phương thức hỗ trợ gián tiếp thông qua việc tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi để DNKN sáng tạo huy động vốn. Tài sản góp vốn có thể bằng Đồng Việt Nam, vàng, giá trị quyền sử dụng đất và các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam. Nhà đầu tư không được sử dụng vốn vay để góp vốn thành lập quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo. Mức đầu tư của mỗi quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo không quá 50% vốn điều lệ của DNKN sáng tạo.
Ngoài các hình thức trên, pháp luật hiện hành còn quy định DNKN huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân riêng lẻ; được bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ vốn từ các quỹ tài chính của Nhà nước ngoài ngân sách như: Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia khi đáp ứng các điều kiện theo điều lệ của quỹ trong hoạt động nghiên cứu phát triển; được tài trợ vốn từ Quỹ phát triển DNNVV…
Nhìn chung, thời gian qua, hệ thống chính sách, pháp luật thúc đẩy huy động vốn cho DNKN về cơ bản đã tương đối đầy đủ. Tuy vậy, các DNKN vẫn gặp phải một số rào cản. Trong đó, thực tiễn thực hiện pháp luật về tiếp cận nguồn vốn cho khởi nghiệp ở Việt Nam cũng đã phát sinh nhiều bất cập, hạn chế đối với từng nguồn vốn mà DNKN có thể tiếp cận.
Về nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước, để tiếp cận nguồn vốn từ các chính sách hỗ trợ, DNKN phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính với nhiều bước, công đoạn xét duyệt với nhiều loại hồ sơ, giấy tờ. Thực tế này đã làm cản trở không ít mô hình khởi nghiệp.
Về nguồn vốn tín dụng, DNKN rất khó có thể dùng mô hình khởi nghiệp hay ý tưởng để làm tài sản đảm bảo khi vay vốn ở ngân hàng, mặc dù pháp luật hiện hành đã cho phép chủ sở hữu quyền tài sản phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, hoạt động khoa học, công nghệ được dùng quyền tài sản đối với đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng; quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ; quyền khác trị giá được bằng tiền phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, hoạt động khoa học, công nghệ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Trong khi đó, việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán tập trung là tương đối khó khăn do các DNKN đa phần có quy mô vừa và nhỏ, chưa phải là công ty đại chúng, đồng thời để trở thành công ty đại chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung, các DNKN đa phần không đáp ứng được. Ngoài ra, Nghị định số 38/2018/NĐ-CP quy định, quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo không có tư cách pháp nhân, do tối đa 30 nhà đầu tư góp vốn thành lập trên cơ sở điều lệ quỹ; quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo không được góp vốn vào quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo khác… đang là rào cản đáng kể trong thu hút nguồn vốn từ cộng đồng cho hoạt động khởi nghiệp.
Hơn nữa, hiện nay pháp luật chưa có quy định về quỹ đầu tư mạo hiểm, nhà đầu tư thiên thần. Các quy định về thủ tục hành chính trong đầu tư, kế toán và quản lý ngoại hối chưa thực sự thuận lợi để thu hút các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp trong nước.
Ngoài những hạn chế, vướng mắc nêu trên, về phía các DNKN, khó khăn không chỉ là công nghệ lạc hậu, trình độ lao động thấp, mà chủ yếu nằm ở yêu cầu về tính khả thi của kế hoạch kinh doanh, thông tin về năng lực tài chính, tài sản được dùng để thế chấp vay vốn. Thực tế cho thấy, phần lớn các DNKN có quy mô nhỏ, thậm chí rất nhỏ, chỉ là một nhóm cá nhân tập hợp để xây dựng ý tưởng sáng tạo. Do vậy, vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính đều hạn chế, thiếu hoặc không có tài sản đảm bảo. Vì vậy, thông thường, các DNKN rất khó đáp ứng được các điều kiện để tiếp cận với nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng. Việc tiếp cận vốn lần đầu đã khó, các lần tiếp cận vốn tiếp theo lại thêm phần khó khăn hơn do khó duy trì tình trạng sử dụng vốn và chứng minh năng lực tài chính cho lần tiếp theo.
Đối với pháp nhân mới thành lập, thì chưa có số liệu về tình hình hoạt động kinh doanh, đánh giá khả năng tài chính của khách hàng thông qua phần vốn thực góp của các thành viên/cổ đông thể hiện trên cân đối kế toán của donh nghiệp so với vốn điều lệ đã đăng ký trên giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp/giấy chứng nhận đầu tư. Vì thế, DNKN thường sử dụng vốn từ tích lũy tự có và/hoặc từ người thân, sau đó mới tiếp cận nguồn vốn của các quỹ đầu tư quan tâm đến lĩnh vực hoạt động của DNKN.
Văn phòng Đề án 844 "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025" (Bộ Khoa học và Công nghệ) phối hợp cùng Startup Vietnam Foundation, BambuUP và Viện Nghiên cứu Quản lý Phát triển bền vững năm 2023 đã tiến hành khảo sát "Thực trạng và tình hình phát triển của các startups tại Việt Nam". Số liệu khảo sát cho thấy, nguồn vốn từ các quỹ và nhà đầu tư mạo hiểm đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của DNKN. Theo khảo sát, gần một nửa số doanh nghiệp (45,14%) đang ở giai đoạn Pre-seed (tiền hạt giống), thể hiện sự tập trung mạnh mẽ ở giai đoạn chuẩn bị và nghiên cứu ý tưởng. Với 30,56% trong vòng gọi vốn Seed (hạt giống), thị trường Việt Nam đang chứng kiến sự gia tăng về số lượng DNKN chuyển từ giai đoạn chuẩn bị sang giai đoạn thực hiện ý tưởng và sản phẩm. Tuy nhiên, chỉ có 17,36% các doanh nghiệp đang ở giai đoạn Series A và tỷ lệ giảm đáng kể khi di chuyển từ giai đoạn Seed lên Series A. Điều này có thể phản ánh sự khó khăn trong việc tiến xa hơn trong quá trình phát triển và gọi vốn, thể hiện thách thức mà các DNKN phải vượt qua để tiến xa hơn trong quá trình phát triển và gọi vốn.
Do vậy, vấn đề đặt ra cho các DNKN non trẻ hiện nay là làm thế nào để tiếp cận đến các nhà đầu tư. Khảo sát chỉ ra, hơn 50% startup gặp khó khăn chính ở giai đoạn này (Hình). Trình độ của các DNKN hiện nay là vấn đề được quan tâm, khi có tới 28,10% doanh nghiệp chưa đủ năng lực để thuyết phục các nhà đầu tư.
Hình: Tỷ lệ các nguồn tài chính DNKN huy động
Trước những khó khăn vướng mắc trên, cần có những giải pháp đồng bộ và từ nhiều bên để khơi dòng vốn cho các DNKN.
Một là, xây dựng một khung khổ pháp lý đồng bộ và thống nhất về hỗ trợ DNKN. Khung khổ pháp lý về hỗ trợ DNKN cần được định hình theo hướng ban hành Luật về khởi nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo; hoặc sửa đổi Luật Hỗ trợ DNNVV năm 2017, trong đó có một chương riêng về hỗ trợ DNKN.
Trong điều kiện chưa thể ban hành luật mới hoặc sửa đổi Luật Hỗ trợ DNNVV, Chính phủ, các bộ, ngành cần ban hành các văn bản hướng dẫn để kịp thời triển khai các chính sách, quy định đã có hiệu lực; khắc phục những khó khăn, vướng mắc hiện nay về tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, Quỹ phát triển DNNVV, Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Liên quan đến các thủ tục hành chính, thuế và đầu tư, cần quy định theo hướng đơn giản hóa các thủ tục thành lập doanh nghiệp, thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm, đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, hướng dẫn ưu đãi về thuế trong đầu tư mạo hiểm, quy định về rút vốn, thoái vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển đổi khoản vay thành cổ phần hoặc phần vốn góp… để thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư ở trong và ngoài nước.
Hai là, xem xét sửa đổi một số luật (như: Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Bộ luật Dân sự, Luật Giao dịch bảo đảm…) theo hướng bổ sung quy định cho phép thay thế tài sản bảo đảm bằng lịch sử tín dụng, xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp đối với một số doanh nghiệp bảo đảm chặt chẽ, khả thi; các quy định về ghi nhận tài sản vô hình là tài sản bảo đảm tiền vay như phần mềm, bằng sáng chế, bản quyền; các quy định cho phép loại trừ yêu cầu bảo toàn vốn trong hoạt động đầu tư cho khởi nghiệp hoặc quy định tỷ lệ chấp nhận rủi ro trong hoạt động đầu tư này…
Ba là, bản thân các DNKN cần chú trọng tới việc nâng cao năng lực, kỹ năng để có thể tiếp cận nguồn vốn kinh doanh hiệu quả. Chủ DNKN cũng cần phải chủ động, tích cực tìm cách huy động vốn, nắm rõ trình tự, thủ tục vay vốn và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đảm bảo việc vay vốn được thành công, đặc biệt là chất lượng của dự án đầu tư, kinh doanh đang hướng đến. Đồng thời, tăng cường chất lượng quản trị trong hoạt động của doanh nghiệp để bảo đảm quản lý hiệu quả nguồn vốn vay trên thực tế./.
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2023), Dự thảo Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Nghị định số 39/2019/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển DNNVV.
2. Bộ Khoa học và Công nghệ, Startup Vietnam Foundation, BambuUP và Viện Nghiên cứu Quản lý Phát triển bền vững (2023), Khảo sát "Thực trạng và tình hình phát triển của các startups tại Việt Nam”.
3. Phan Văn Ngọc (2023), Pháp luật về huy động vốn đối với DNKN sáng tạo và một số kiến nghị, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 14(486).
4. Trường Nhật (2023), Cả nước có gần 3800 DNKN đổi mới sáng tạo, truy cập từ https://dangcongsan.vn/khoa-hoc/ca-nuoc-co-gan-3800-doanh-nghiep-khoi-nghiep-doi-moi-sang-tao-649578.html#:~:text=(%C4%90CSVN)%20%2D%20%C4%90%E1%BA%BFn%20nay%2C,du%20l%E1%BB%8Bch%2C%20b%E1%BA%A5t%20%C4%91%E1%BB%99ng%20s%E1%BA%A3n.
Đoàn Anh Tuấn - Học viện Chính sách và Phát triển
(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 03, tháng 02/2024)