Thành phố Cần Thơ là địa điểm thu hút sự quan tâm của nhiều người, nổi tiếng với những chợ nổi đặc trưng, những cánh đồng lúa bạt ngàn và những dòng sông hiền hòa. Tuy nhiên, không ít người vẫn còn băn khoăn về câu hỏi: “Thành phố Cần Thơ thuộc tỉnh nào?“. Trong bài viết này, ACC Cần Thơ sẽ giải đáp thắc mắc đó và cung cấp những thông tin cơ bản về thành phố này.
Quy mô của thành phố Cần Thơ
Diện tích: 1.439,2 km² (thứ 4 Việt Nam)
Dân số: 1.235.171 người (thứ 5 Việt Nam)
Kinh tế: GRDP 85.100 tỷ đồng (thứ 15 Việt Nam), dịch vụ chiếm 57%, công nghiệp – xây dựng 36%, nông nghiệp 7%.
Hạ tầng: Giao thông phát triển, hệ thống điện nước đầy đủ, sân bay quốc tế đang xây dựng.
Văn hóa – xã hội: Trung tâm văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long, giáo dục – y tế phát triển, an ninh trật tự đảm bảo.
Tầm quan trọng của thành phố Cần Thơ
Qua 20 năm xây dựng và phát triển, với nhiều thành tựu đạt được về kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, thành phố từng bước vươn lên trở thành trung tâm, động lực phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố luôn đạt mức khá cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ và công nghiệp là chủ đạo, chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh từng bước được cải thiện. Hằng năm, thành phố Cần Thơ đóng góp khoảng 1,2% GDP cả nước và khoảng 9,5% GRDP của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tổng sản phẩm bình quân đầu người (GRDP/người) ngày càng tăng; việc huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội tăng đáng kể.
Thành phố Cần Thơ là một trong các đô thị trọng điểm thực hiện “Đề án phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu”; thành phố đã nhận “Chứng chỉ ASEAN thành phố tiềm năng để trở thành thành phố bền vững về môi trường lần thứ 3 về không khí sạch”. Thành phố tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, bao gồm hạ tầng thương mại – dịch vụ, du lịch, khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo, y tế, văn hóa – thể thao, năng lượng và các khu – cụm công nghiệp, đặc biệt là hạ tầng giao thông. Điều này nhằm khẳng định vai trò là đầu mối giao thông vận tải vùng và quốc tế, từng bước khẳng định vị trí trung tâm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Cần Thơ đã và đang phát triển mạnh mẽ, trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa và giáo dục của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Hiểu rõ về địa vị hành chính của Cần Thơ giúp chúng ta nhận thấy sự phát triển vượt bậc của thành phố này trong việc thúc đẩy sự phát triển toàn diện của khu vực. Hy vọng bài viết do ACC Cần Thơ chia sẻ đã giải đáp thắc mắc của bạn về câu hỏi “Thành phố Cần Thơ thuộc tỉnh nào?” và cung cấp thêm những thông tin hữu ích về thành phố xinh đẹp này.
Bài này viết về thành phố Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng trước đây. Đối với thành phố trực thuộc trung ương hiện tại, xem
Đà Nẵng là một thành phố thuộc tỉnh và là tỉnh lỵ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng cũ trước khi thành lập thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương hiện nay. Thành phố Đà Nẵng lúc bấy giờ có địa giới hành chính tương ứng với các quận Hải Châu, Sơn Trà, Thanh Khê, phường Khuê Trung thuộc quận Cẩm Lệ và phường Khuê Mỹ, Mỹ An thuộc quận Ngũ Hành Sơn
Thành phố Đà Nẵng nằm trải dài hai bên bờ sông Hàn, từ ngã ba sông ra đến cửa biển Đà Nẵng. Bán đảo Sơn Trà nằm về phía đông bắc thành phố.
Trước khi giải thể vào năm 1997, thành phố có vị trí địa lý:
Ngày 17 tháng 8 năm 1888, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập ba thành phố ở Việt Nam là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng.[1] Ngày 3 tháng 10 năm 1888, Vua Đồng Khánh buộc phải ký một đạo dụ gồm 3 khoản quy định rõ "...Đà Nẵng được chính phủ Đại Nam kiến lập thành nhượng địa Pháp và nhượng trọn quyền cho chính phủ Pháp, và chính phủ Đại Nam từ bỏ mọi quyền hành trên lãnh thổ đó". Theo phụ đính của đạo dụ này, năm xã của huyện Hòa Vang gồm Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây nằm bên tả ngạn sông Hàn được cắt giao cho Pháp để lập "nhượng địa" Tourane với diện tích 10.000 ha.[2] Ngày 24 tháng 5 năm 1889, Toàn quyền Đông Dương Étienne Richaud ra nghị định thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam.[3] Đà Nẵng là thành phố loại 2, tương tự như thành phố Chợ Lớn thành lập trước đó.[4] Đơn vị hành chính này chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương thay vì triều đình Huế.[5] Đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý do Khâm sứ đề nghị và Toàn quyền bổ nhiệm.[4] Ngày 15 tháng 1 năm 1901, dưới sức ép của Pháp, Vua Thành Thái buộc phải ký một đạo dụ nới rộng nhượng địa Đà Nẵng thêm 14 xã, cụ thể là thêm 8 xã thuộc huyện Hòa Vang bên tả ngạn sông Hàn và 6 xã thuộc huyện Diên Phước bên hữu ngạn sông Hàn.[6] Ngày 19 tháng 9 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định tách Đà Nẵng khỏi tỉnh Quảng Nam để trở thành một đơn vị hành chính độc lập gồm 19 xã.[7] Như vậy vào đầu thế kỷ XX, thành phố Tourane/Đà Nẵng đã vươn về phía tây và tây bắc, còn phía đông thì đã vượt sang hữu ngạn sông Hàn chiếm trọn bán đảo Sơn Trà.[8][6][9]
Đầu thế kỷ XX, Tourane được Pháp xây dựng trở thành một đô thị theo kiểu Tây phương. Cơ sở hạ tầng xã hội, kỹ thuật sản xuất được đầu tư. Sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến hàng xuất khẩu, sửa chữa tàu thuyền, kinh doanh dịch vụ được hình thành và phát triển; cùng với Hải Phòng và Sài Gòn, Tourane trở thành trung tâm thương mại quan trọng.[5] Cảng Đà Nẵng đã tương đối hoàn chỉnh và đi vào hoạt động từ giai đoạn 1933-1935. Sân bay dân dụng cũng được nhà cầm quyền sớm xây dựng vào năm 1926.[10] Hầu hết các công ty lớn nhất hoạt động ở Đông Dương đều hiện diện ở Đà Nẵng.[11] Dân số thành phố tăng lên nhanh chóng; năm 1936, Đà Nẵng có 25.000 người; năm 1945 có khoảng 30.000 người.[12]
Năm 1950, Pháp trao trả Đà Nẵng cho chính phủ Quốc gia Việt Nam dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại. Từ tháng 10 năm 1955 thời Việt Nam Cộng hòa, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành phân chia lại địa giới hành chính. Lúc này, Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam. Đến ngày 31 tháng 7 năm 1962, tỉnh Quảng Nam được tách thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín, Đà Nẵng trực thuộc trung ương.[15]
Thị xã Đà Nẵng được chia thành 3 quận:
Vào những năm 1954-1955, dân số Đà Nẵng có khoảng hơn 50.000 người.[15]
Trong khi đó cuộc Chiến tranh Việt Nam ngày càng gia tăng. Tháng 3 năm 1965 các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp lớn. Sân bay Đà Nẵng được coi là một trong những sân bay "tấp nập" nhất trong chiến tranh.[16] Năm 1967, Đà Nẵng được chính quyền Việt Nam Cộng hòa ấn định trực thuộc trung ương và xác định mục tiêu xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa cho vùng I và II chiến thuật. Mỹ cho xây dựng ở Đà Nẵng các căn cứ quân sự và kết cấu hạ tầng phục vụ cho mục đích quân sự như sân bay, cảng, kho bãi, cơ sở thông tin liên lạc...[17]
Năm 1973, khi quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã cho phân chia lại địa giới hành chính Đà Nẵng, giữ nguyên 3 quận như cũ, chỉ sáp nhập 28 khu phố bên dưới cấp quận thành 19 phường.
Thị xã Đà Nẵng được đặt dưới quyền điều hành của Hội đồng thị xã gồm 12 ủy viên và do một Thị trưởng đứng đầu.[18] Do chính sách đô thị hoá, dân số Đà Nẵng ngày càng tăng nhanh. Dân số thành phố từ mức 148.599 người vào năm 1964 tăng lên tới gần 500.000 người vào năm 1975.
Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, Đà Nẵng là đô thị lớn thứ hai miền Nam.[19] Tính đến trước sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cảng Đà Nẵng là nơi cung cấp hàng hóa cho cả vùng I chiến thuật, đồng thời là trung tâm tiếp tế cho gần 3 triệu dân miền Nam.[20] Toàn thị xã khi đó có hàng chục công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Người dân Đà Nẵng chủ yếu sống bằng nghề buôn bán.[21]
Ngày 4 tháng 10 năm 1975, Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời khu Trung Trung bộ ra Quyết định số 119/QĐ về việc hợp nhất tỉnh Quảng Nam và Đặc khu Quảng Đà (2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín và thị xã Đà Nẵng thời Việt Nam Cộng hòa) thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Ba quận I, II, III của thị xã Đà Nẵng cũ trở thành đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng[22] (không còn đơn vị hành chính mang tên Đà Nẵng).
Ngày 30 tháng 8 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 228/CP,[23] và ngày 10 tháng 2 năm 1978, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng ra quyết định sáp nhập 3 quận I, II, III thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành một đơn vị hành chính là thành phố Đà Nẵng với 28 phường trực thuộc[22] (không còn đơn vị hành chính "quận", được gọi lại là "khu vực"). Lúc này, Đà Nẵng là tỉnh lỵ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Thành phố Đà Nẵng bao gồm 28 phường: An Hải Bắc, An Hải Đông, An Hải Tây, An Khê, Bắc Mỹ An, Bình Hiên, Bình Thuận, Chính Gián, Hải Châu I, Hải Châu II, Hòa Cường, Hòa Thuận, Khuê Trung, Mân Thái, Nại Hiên Đông, Nam Dương, Phước Mỹ, Phước Ninh, Tam Thuận, Tân Chính, Thạc Gián, Thạch Thang, Thanh Bình, Thanh Lộc Đán, Thọ Quang, Thuận Phước, Vĩnh Trung và Xuân Hà.
Ngày 5 tháng 5 năm 1990, thành phố Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại II.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được chia thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương.[24]
Ngày 23 tháng 1 năm 1997, Chính phủ thông qua Nghị định 7/1997/NĐ-CP về việc thành lập đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Đà Nẵng.[25] Theo đó, giải thể thành phố Đà Nẵng cũ để thành lập các quận mới như sau:
Đến ngày 5 tháng 8 năm 2005, Chính phủ lại ban hành Nghị định 102/2005/NĐ-CP về việc thành lập phường, xã thuộc quận Thanh Khê và huyện Hoà Vang; thành lập quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.[26] Theo đó, phường Khuê Trung thuộc quận Hải Châu chuyển sang trực thuộc quận mới Cẩm Lệ.
Như vậy, thành phố Đà Nẵng cũ trước năm 1997 ngày nay có địa giới tương ứng với các quận Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà; phường Khuê Trung của quận Cẩm Lệ và các phường Khuê Mỹ, Mỹ An (2 phường này là phường Bắc Mỹ An cũ) của quận Ngũ Hành Sơn.
Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị thành lập phường An Bình A thuộc thị xã Hồng Ngự trên cơ sở toàn bộ 27,03 km2 diện tích tự nhiên và quy mô dân số 14.379 người của xã An Bình A; thành lập phường An Bình B thuộc thị xã Hồng Ngự trên cơ sở toàn bộ 19,08 km2 diện tích tự nhiên và quy mô dân số 7.352 người của xã An Bình B.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị thành lập thành phố Hồng Ngự thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở toàn bộ 121,84 km2 diện tích tự nhiên và quy mô dân số 100.610 người của thị xã Hồng Ngự. Thành phố Hồng Ngự giáp các huyện Hồng Ngự, Tam Nông, Tân Hồng và Vương quốc Campuchia.
Sau khi thành lập, thành phố Hồng Ngự có 7 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 5 phường: An Bình A, An Bình B, An Lạc, An Lộc, An Thạnh và 2 xã: Bình Thạnh, Tân Hội. Tỉnh Đồng Tháp có 12 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 9 huyện và 3 thành phố; 143 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 115 xã, 19 phường và 9 thị trấn.
Nghị quyết nêu rõ: Thành lập Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở kế thừa Tòa án nhân dân thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp; thành lập Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở kế thừa Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/11/2020.
Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp và các cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm tổ chức thi hành Nghị quyết này; sắp xếp, ổn định bộ máy các cơ quan, tổ chức ở địa phương; ổn định đời sống của nhân dân địa phương, bảo đảm yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh trên địa bàn.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm sắp xếp tổ chức bộ máy, quyết định biên chế, số lượng Thẩm phán, Kiểm sát viên, công chức khác và người lao động của Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp theo quy định của pháp luật.
Các cơ quan, tổ chức, đơn vị có tên gọi gắn với địa danh đơn vị hành chính được thành lập mới phải hoàn thành việc đổi tên để hoạt động với tên gọi quy định tại Nghị quyết này kể từ ngày Nghị quyết có hiệu lực thi hành./.
Theo đó, thành phố Sơn Tây có 11.346 ha diện tích tự nhiên, 181.831 nhân khẩu và có 15 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm các phường: Quang Trung, Lê Lợi, Ngô Quyền, Sơn Lộc, Xuân Khanh, Phú Thịnh và các xã: Đường Lâm, Viên Sơn, Trung Hưng, Thanh Mỹ, Xuân Sơn, Trung Sơn Trầm, Kim Sơn, Sơn Đông và Cổ Đông.
Thành phố Sơn Tây phía Đông giáp huyện Phúc Thọ, phía Tây giáp huyện Ba Vì, phía Nam giáp huyện Thạch Thất và phía Bắc giáp huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.
Như vậy, sau khi thành lập thành phố Sơn Tây, tỉnh Hà Tây có 14 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm: Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hoà và các thành phố Hà Đông, Sơn Tây.